“Du kích Bình Đức tụi tui hồi đó “sống” bằng mìn và lựu đạn không hà, có nghĩa là, thiếu gì thì thiếu, chớ không thể thiếu mìn và lựu đạn được. Bọn địch không ngờ tụi tui dám chốt ngay sát chân hàng rào thứ nhứt, cách lô cốt của tụi nó chưa đầy 100 m. Thiệt tình cũng chẳng phải mình gan, nhưng đây lại là nơi an toàn nhất vì địch không ngờ tới, nên tụi tui tránh được những tổn thất, hy sinh do bom, pháo. Sống sát bên địch, tụi tui chỉ đánh bằng mìn và lựu đạn gài, thiếu lựu đạn thì chui vào hàng rào gỡ mìn và lựu đạn của địch gài lại địch. Bất đắc dĩ tụi tui mới nổ súng, bởi chỉ cần nghe một tiếng súng là pháo, cối địch dập tơi bời và sau đó là hàng tiểu đoàn bộ binh càn đi xát lại...”.
Đầu mùa mưa năm 1973, địch cho xe ủi đường bao quanh căn cứ, đã phát hiện chỗ ở của chúng tôi. Lập tức 3 tiểu đoàn bộ binh địch được lệnh siết chặt vòng vây và chia thành nhiều mũi ập vào. Lính dày đặc, bít chặt các ngã đường. Lực lượng du kích chỉ có 7 người, không còn hy vọng một con đường thoát. Nhiều toán địch lọt vào bãi mìn và lựu đạn gài, xen lẫn trong từng tiếng nổ là những tiếng kêu khóc rần trời, tiếng chửi rủa tục tỉu.
Sau một tuần truy quét mà không thấy bóng dáng du kích, lại đụng mìn, lựu đạn chết và bị thương 23 tên, trong đó có 2 tên sĩ quan, địch buộc phải rút quân cùng với câu hỏi ám ảnh không lời giải đáp: Việt cộng rút đi đằng nào? Không lẽ họ có phép độn thổ, xuất quỷ nhập thần? Một lần nữa, bọn địch không thể ngờ du kích Bình Đức gan cùng mình, vòng vây càng siết chặt, tụi tui càng luồn sâu vào trong căn cứ, ém quân sát nhà đèn ẩn nấp, chờ cho địch rút quân mới luồn trở ra một cách an toàn.